Thời kỳ Thiên Thuận Minh_Anh_Tông

Giết Vu Khiêm và Vương Văn

Ngay sau khi trở lại ngôi vua, Minh Anh Tông phế truất Đại Tông đang bệnh nặng làm Thành vương như cũ, cho ra ở Tây cung, phế chức Hoàng thái hậu của Hồ thị là mẫu thân Thành vương. Vợ cả của Thành vương là Uông thị trước kia vì từng phản đối thay đổi thái tử mà bị Cảnh Thái đày vào lãnh cung, đến đây Anh Tông cho thả ra, lại phong là Vương phi như trước. Mấy ngày sau Thành vương Chu Kỳ Ngọc qua đời. Có ý kiến cho rằng Thành vương bị Anh Tông sai người sát hại[29].

Sau đó ông hạ lệnh khôi phục chức tước, danh dự cho hoạn quan Vương Chấn, lập con là Chu Kiến Thâm trở lại ngôi thái tử. Những người có công làm binh biến được phong thưởng lớn có tới 3000 người. Nhiều người thăng tiến thời Cảnh Thái đều bị giáng chức hàng loạt[30].

Từ Hữu Trinh và Thạch Hanh trở thành công thần, muốn trừ bỏ Vu Khiêm và Vương Văn, bèn quy cho Vu Khiêm và Vương Văn tội muốn lập Tương vương Chu Chiêm Thiện (chú của Anh Tông và Đại Tông) làm vua. Kết quả hai người bị Minh Anh Tông kết án tử hình. Mọi người trong thiên hạ đều nói Vu Khiêm có công đánh lui quân Ngõa Thích bị chết oan. Việc sát hại Vu Khiêm của Minh Anh Tông bị đánh giá là sai lầm lớn nhất của ông trong lần làm vua thứ 2[31].

Từ khi Vu Khiêm bị sát hại, việc quân sự bị bỏ bễ, Anh Tông lo buồn và hối hận vì việc này[32]. Minh Anh Tông giao việc triều chính cho Từ Hữu Trinh. Những người tham gia binh biến sau khi được đắc sủng chỉ chú trọng làm việc riêng tư, cuối cùng nảy sinh những việc tranh chấp quyền lực giữa những người này.

Từ Hữu Trinh thất thế

Sau khi Minh Anh Tông phục tịch đã phong Từ Hữu Trinh được phong làm Vũ Công bá, Thượng thư bộ Binh[33]; Thạch Hanh làm Tổng lĩnh các quân, Trung quốc công, đứng đầu ban võ. Tào Cát Tường làm Tư lễ thái giám, Tổng đốc ba doanh, đứng đầu hàng nội quan[34]. Chú cháu Thạch Hanh dung túng cho các quan viên, mãnh sĩ hơn 10.000 người, hơn nửa triều đều là môn hạ, mỗi khi chúng ra ngoài người ta không ai dám nhìn thẳng vào mặt[35], cùng với Tào Cát Tường quyền nghiêng trong ngoài, gọi là Tào, Thạch.

Từ Hữu Trinh, Thạch Hanh, Tào Cát Tường từ thế đồng minh, vì tranh giành quyền lực mà trở mặt lẫn nhau. Từ Hữu Trinh mưu với Lý HiềnDương Tuyên đàn hặc Thạch Hanh, Tào Cát Tường thị sủng chuyên quyền, xâm chiếm ruộng của người dân, tuy nhiên nhà vua vì e ngại thế lực Tào, Thạch nên chưa muốn truy cứu đến cùng. Tào, Thạch biết được chuyện này, sinh oán với Hữu Trinh[33]. Tào Cát Tường bí mật sai tiểu thái giám rình xem hai người họ nói cái gì, rồi giả cách vô ý nhắc lại những lời đó trước mặt Anh Tông. Khi Anh Tông hỏi sao biết những việc đó, thì bảo là do Hữu Trinh nói ra. Từ đó Anh Tông dần xa lánh Hữu Trinh. Khi ngự sử Trương Bằng bí mật tố cáo với Anh Tông những việc làm xấu xa của Thạch Hanh, thì có Cấp sự trung Vương Huyễn đem việc này nói cho Tào và Thạch biết[33]. Hai người đến trước mặt Anh Tông khóc không chịu đứng dậy mà nói

Bọn thần vạn tử nhất sanh, nghênh đón hoàng thượng phục ngôi. Nay Nội các chuyên quyền, nhất tâm muốn trừ đi bọn thần.[36]

Anh Tông nghe thấy động lòng, bèn lấy tội danh "Tham lam uy quyền, bài xích huân cựu" mà nhốt Từ Hữu Trinh vô ngục, rồi bãi quan đày ra Lĩnh Nam. Từ đó Thạch, Tào quyền nghiêng triều dã, không còn ai ngăn cản.

Diệt họ Thạch

Thạch Hanh thao túng quyền trong tay, lo sợ quan văn lĩnh Đề đốc quân vụ sẽ cản trở đường thăng tiến của quan võ, tấu lên Anh Tông xin bãi miễn tuần phủ và đề đốc quân vụ ở các tỉnh biên giới. Từ sau khi đó, quân quyền của Hanh lại càng lớn mạnh[35]. Nhiều lần Thạch Hanh chưa có chỉ dụ của Anh Tông mà cố tranh vào gặp; lúc có tấu chương dâng lên, Anh Tông phải nhìn theo sắc mặt của Hanh mà chuẩn hay bác, do đó hai bên dần sinh hiềm khích. Anh Tông không thể nhẫn nhịn được nữa, bèn hạ lệnh cho cửa Tả Thuận từ rày về sau không có lệnh triệu của hoàng đế thì không cho Thạch Hanh vào gặp nữa[35].

Phủ đệ của Thạch Hanh rất là xa hoa tráng lệ, giống như kiểu cách phủ vương gia, càng khiến Anh Tông càng bất mãn với Hanh. Mùa thu năm 1459, Thạch Bưu muốn được cử đến trấn Đại Đồng[37], sai thủ hạ là Thiên hộ Dương Bân hơn 50 người tấu xin. Anh Tông biết việc Bưu từng bí mật luyện tập quân sĩ ở Đại Đồng, liền bắt bọn Dương Bân tra khảo. Họ khai ra những điều trái phép mà Bưu từng làm. Anh Tông đại nộ, bắt giam Thạch Bưu vô ngục thất[35].

Thạch Hanh biết tin, đích thân đến khóc tạ tội, xin giáng chức của con em mình trong triều xuống hết, Anh Tông không theo. Các quan trong triều thấy Thạch Bưu bị bắt, biết Anh Tông có ý trừ họ Thạch, nên đồng loạt dâng sớ kể tội Thạch Hanh, trong đó có cả những người từng cùng phe với họ Thạch. Anh Tông bèn hạ lệnh bãi quan Thạch Hanh. Đầu tháng 2 năm 1460, Chỉ huy Cẩm y vệ Lục Cảo tấu lên rằng Thạch Hanh nuôi ý bất mãn, lại cùng cháu là Thạch Hậu lan truyền những lời lẽ không hay trong dân chúng và lén nuôi dưỡng những đứa vô lại. Các đại thần lại dâng sớ kể tội. Thạch Hanh bị bắt hạ ngục vì tội mưu phản, gia sản bị niêm phong. Tháng sau Thạch Hanh chết ở trong ngục; không lâu sau Thạch Bưu, Thạch Hậu bị xử chặt đầu phơi thây[38][39]. Sau khi Thạch Hanh chết, Anh Tông lại nhớ tới Vu Khiêm, hối vì giết lầm ông ta, vì thế đem những quan lại hãm hại Vu Khiêm đều miễn chức và bắt tội.

Cuộc binh biến của Tào Khâm

Hình ảnh Ngọ Môn, một trong các cổng của Tử Cấm Thành. Những khối đá lớn được rải dưới nền đất có thể từng được sử dụng để đóng chặt cổng thành trước sự tiến công của quân phản loạn[40].

Sau khi Thạch Hanh bị diệt, chú cháu Tào Cát Tường và Tào Khâm cũng sợ hãi sẽ bị trừ bỏ. Tào Cát Tường quyết định dùng đảo chính quân sự, nên rất biệt đãi quân sĩ bộ hạ.

Năm 1461, Tào Khâm bị Anh Tông tìm cớ khiển trách. Ngay sau đó, ngày 6 tháng 8, nhà vua ban chiếu xuống nói thủ dụ các võ quan phải nên trung thành với hoàng đế. Tào Khâm cho rằng đây là một mối đe dọa đối với mình. Ngày 20 tháng 7 năm 1461, vì Thát Đát quấy nhiễu biên cương, nhà vua sai Thượng thư bộ Binh Mã Ngang và tướng Tôn Thang đem 15.000 quân trấn giữ Cam châu và Lương châu[41]. Tào Khâm lập mưu dùng quân của mình giết Mã NgangTôn Thang khi 15.000 quân của họ rời kinh vào ngày 7 tháng 8 để rồi cướp lấy quân của họ, sau đó xông vào cung ép Anh Tông thoái vị, nhường ngôi cho thái tử Kiến Thâm, xưng Thái thượng hoàng như trước[42].

Đêm 6 tháng 8, Tào Khâm mở tiệc rượu thết đãi quân sĩ để chuẩn bị khởi sự, hai người quân sĩ Mông Cổ vì sợ thất bại nên đem việc đến báo với các quan chỉ huy Ngô CẩnNgô Tông, Ngô Cẩn báo việc cho Tôn Thang, Tôn Thang báo lên Anh Tông[40][43]. Nhận được tin báo, Anh Tông lập tức cho bắt giam Tào Cát Tường, phong tỏa bốn cổng của Tử Cấm Thành cùng chín cửa ngõ của Bắc Kinh. Tào Khâm biết âm mưu đã bị tiết lộ[44], bèn giết Chỉ huy Cấm quân Lục Cảo, bắt các đại thần Lý Hiền, Vương Cao[45], rồi dàn quân tấn công hai cửa Đông, Tây không được. Quân Minh phản công, Lý HiềnVương Cao thừa cơ hội bỏ trốn[46].

Các tướng Tôn Thang, Mã Ngang hợp sức giết hai em của Tào KhâmTào Huyễn, Tào Tuyền, Tào Đạc[47], chém Tào Khâm bị thương ở cả hai cánh tay. Tào Khâm tìm đường chạy khỏi thành Bắc Kinh, không được, bèn lui về cố thủ tại nhà riêng ở Bắc Kinh[47]. Tôn Thang cùng Tôn Kế Tông đem quân xông vào nhà, Tào Khâm bèn nhảy xuống giếng mà tự sát[47]. Quân Minh vớt xác của Khâm lên, sau đó chặt ra thành từng khúc[47].

Ngày 22 tháng 8 năm 1461, tất cả những người theo Tào Khâm làm phản đều bị chặt đầu[48]. Ngày 8 tháng 8, Tào Cát Tường bị xử phanh thây ở Ngọ Môn dưới sự chứng kiến của tất cả các quan từ Thượng thư trở lên[49]. Di thể của anh em Tào Khâm vẫn bị chưng ở đó thêm mấy ngày rồi mới ném đi[49]. Các đồng mưu của Tào Khâm nhưng không tham gia vào vụ binh biến được miễn tội chết, đày ra Lĩnh Nam[50]. Ngoài ra theo đề nghị của Lý Hiền, Anh Tông không xét hỏi đến những người bị bức ép theo phe phản nghịch[51]. Ngoài ra Anh Tông còn lại lệnh tạm đình chỉ thu thuế ở trong thành, để ổn định lại tình hình. Những kẻ cơ hội thừa loạn mà đến các gia đình có thù oán với mình để quấy rối, đốt nhà, giết người[52]. Anh Tông hạ lệnh bắt bọn cướp phá gông cổ thị chúng giống như kẻ tội phạm[52]. Vì thành phần chính tham gia quân nổi dậy là người Mông Cổ, nên các tướng Mông cảm thấy không yên. Ngày 9 tháng 8, nhà vua xuống chiếu trấn an bọn họ[53].